Bộ Luật Thương Mại Việt Nam

Bộ Luật Thương Mại Việt Nam

Theo số liệu công bố mới đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, 11 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc đạt 55,2 tỷ USD, giảm 0,9%; nhập khẩu từ thị trường này đạt 130,2 tỷ USD, tăng 29,7%. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nhập siêu từ Trung Quốc 75 tỷ USD, tăng 67,7%.

Theo số liệu công bố mới đây của Tổng cục Thống kê cho thấy, 11 tháng qua, kim ngạch xuất khẩu từ Việt Nam sang Trung Quốc đạt 55,2 tỷ USD, giảm 0,9%; nhập khẩu từ thị trường này đạt 130,2 tỷ USD, tăng 29,7%. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam. Nhập siêu từ Trung Quốc 75 tỷ USD, tăng 67,7%.

Giới thiệu ngành Luật thương mại quốc tế DAV

Sinh viên theo học ngành Luật thương mại quốc tế (Mã ngành: 7380109) của Học viện Ngoại giao sẽ được trau dồi kiến thức cơ bản về pháp luật quốc tế, pháp luật Việt Nam; có khả năng vận dụng kiến thức cơ bản của ngành và kiến thức chuyên sâu để giải quyết các vấn đề pháp lý thương mại quốc tế trên thực tế; có kiến thức ngoại ngữ cần thiết để làm việc trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Ngành Luật thương mại quốc tế là một trong những ngành mới được mở từ năm 2022. Bên cạnh đó, còn được trang bị các phương pháp và kỹ năng thực hành nghề luật; có khả năng tư duy, nghiên cứu, nhận diện, giải quyết vấn đề; có kỹ năng đàm phán, tư vấn pháp lý và làm việc với khách hàng; ... Sau khi tốt nghiệp, sinh viên có thể tự tin đảm nhận các vị trí như: nhân viên tư vấn luật và cung cấp dịch vụ pháp lý; làm việc hoặc nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu về Nhà nước và Pháp luật, Viện Kinh tế; hoặc có cơ hội giảng dạy luật thương mại quốc tế, luật kinh tế tại các trường đào tạo ngành luật trên cả nước.

Kim ngạch thương mại Việt Nam - LB Nga năm 2018

Theo số liệu thống kê của Hải quan Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu song phương Việt Nam - LB Nga năm 2018 ước đạt 4,57 tỷ USD, tăng 28,6% so với cùng kỳ năm 2017. Cụ thể

a) Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang LB Nga năm 2018 đạt 2,44 tỷ USD, tăng 12,8% so với năm 2017.

Các mặt hàng có kim ngạch tăng trưởng khá gồm: cà phê (+59,1%); sản phẩm từ chất dẻo (+37,3%); xăng dầu các loại (+47,3%); các sản phẩm mây, tre cói và thảm (203%); máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện (+67,6%); sắt thép các loại (+77,5%), máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác (46,9%).

Bảng 1: Kim ngạch XK các mặt hàng chính của Việt Nam sang Nga

b) Năm 2018 kim ngạch nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam từ Nga đạt 2,12 tỷ USD, tăng 53,38% so với năm 2017.

Các nhóm hàng có kim ngạch nhập khẩu tăng mạnh gồm: lúa mì (+359,9%); hóa chất (+167,8%); xăng dầu các loại (+402,7%); sắt thép các loại (+314,4%); thủy sản (+27%).

Bảng 2: Kim ngạch NK các mặt hàng chính của Việt Nam từ Nga

Còn theo thống kê của Hải quan LB Nga, trong 11 tháng của năm 2018 thương mại song phương Việt Nam - LB Nga tăng trưởng khá, đạt 5,55 tỷ USD (tăng 16,8% so với cùng kỳ năm 2017). Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang LB Nga đạt 3,38 tỷ USD, tăng 10,6%; kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ LB Nga đạt 2,17 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2017. Tuy chỉ chiếm xấp xỉ 0,9% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của LB Nga nhưng Việt Nam vẫn giữ vị trí số 1 về kim ngạch thương mại với LB Nga trong số các quốc gia của khu vực Đông Nam Á và là đối tác thương mại đứng thứ 6 của LB Nga ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Năm 2022 là một năm có nhiều thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu và xúc tiến thương mại, đầu tư với đối tác EU, khi cả Việt Nam và EU đang đẩy mạnh phục hồi hậu dịch, tích cực nối lại các hoạt động kinh tế, giao thương. Trong nỗ lực đồng hành cùng cộng đồng doanh nghiệp hai Bên nắm bắt những thời cơ hợp tác mới và khai thác hiệu quả hơn nữa EVFTA, ngày 29/9/2022 Bộ Công Thương phối hợp với Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) tổ chức Diễn đàn thương mại Việt Nam – EU năm 2022. Diễn đàn được tổ chức theo hình thức trực tiếp và trên nền tảng trực tuyến.

Chủ trì Diễn đàn có đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương, cùng sự tham gia của Lãnh đạo các địa phương, Đại sứ - Trưởng Phái đoàn Liên minh châu Âu tại Việt Nam, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp Châu Âu tại Việt Nam (EuroCham), Thương vụ Việt Nam tại các nước châu Âu, Chuyên gia, các Hiệp hội ngành hàng, cùng đông đảo cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và châu Âu tham dự trực tiếp và trên nền tảng trực tuyến.

Đồng chí Nguyễn Thanh Hải - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh chủ trì tại điểm cầu Phú Thọ

Về phía tỉnh Phú Thọ, Chủ trì điểm cầu có có đồng chí Nguyễn Thanh Hải - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh cùng các thành viên trong Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh.

Quang cảnh hội nghị tại điểm cầu Phú Thọ

Diễn đàn được tổ chức với chủ đề “Việt Nam – EU hợp tác xây dựng chuỗi cung ứng đa dạng bền vững”.

Phát biểu khai mạc diễn đàn, đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương cho biết, sau hơn 2 năm kể từ khi Hiệp định Thương mại tự do EVFTA chính thức có hiệu lực có thể thấy quan hệ kinh tế - thương mại đã thực sự trở thành điểm sáng trong bức tranh hợp tác song phương Việt Nam - EU với những kết quả đáng ghi nhận.

Đồng chí nhấn mạnh: EU hiện là đối tác thương mại hàng đầu của Việt Nam và là thị trường xuất khẩu lớn thứ ba, thị trường nhập khẩu lớn thứ năm của Việt Nam. Ở chiều ngược lại, Việt Nam đã vượt Singapore trở thành đối tác thương mại lớn nhất của EU trong khối ASEAN và đứng vị trí thứ 11 trong số các nước cung ứng hàng hóa lớn nhất vào EU. Với lợi thế lớn từ Hiệp định EVFTA và tới đây là IPA, Việt Nam sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi trong thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, các dự án hỗ trợ từ phía các đối tác EU để đẩy mạnh cơ cấu kinh tế theo hướng xanh và bền vững, bao gồm cả vấn đề sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, chuyển đổi công nghệ cao trong sản xuất, giúp hàng hóa Việt Nam đáp ứng các tiêu chuẩn kỹ thuật và môi trường của EU, tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng hoàn chỉnh bền vững, cùng có lợi với EU.

Đồng chí Nguyễn Hồng Diên - Ủy viên BCH Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Công Thương phát biểu khai mạc diễn đàn

Trong khuôn khổ Diễn đàn đã diễn ra hai phiên thảo luận với chủ đề: Dấu ấn hai năm thực thi EVFTA – Thách thức và thời cơ mới và Hợp tác hướng tới tăng trưởng xanh và bền vững. Các đại biểu cũng thẳng thắn trao đổi các thông tin cững như đưa ra những nhận định dự báo trong thời gian tới, các vấn đề thảo luận tập trung vào: Cập nhật biến động thị trường và dự báo những thay đổi tác động đến triển vọng kinh tế, thương mại Việt Nam – EU; Thực tế tận dụng ưu đãi từ EVFTA sau 2 năm thực thi; những yếu tố thuận lợi & thách thức đặt ra trong thời gian tới; Cảnh báo những nguy cơ, rủi ro và các vấn đề phát sinh đối với xuất khẩu hàng hóa và các hoạt động giao dịch thương mại; những thay đổi, điều chỉnh về quy định, quy chuẩn & tiêu chuẩn kỹ thuật doanh nghiệp cần đặc biệt lưu ý trong tiếp cận thị trường; Những ưu tiên về chuyển đổi xanh và phát triển bền vững trong chính sách của EU và định hướng hợp tác với Việt Nam; Chủ trương thúc đẩy sản xuất tiêu dùng bền vững, bao gồm cả vấn đề chuyển đổi năng lượng, sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong sản xuất tại Việt Nam và cơ hội hợp tác với EU…

Các đại biểu thảo luận tại diễn đàn

Ngay sau khi Diễn đàn kết thúc, đồng chí Nguyễn Thanh Hải - Ủy viên BTV Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh, Trưởng Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh nhấn mạnh, tham gia Diễn đàn thương mại Việt Nam – EU năm 2022 có ý nghĩa quan trọng, giúp các thành viên Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh, các sở, ngành liên quan nắm bắt được những định hướng, thời cơ hợp tác mới giữa Việt Nam – EU.

Đồng chí yêu cầu, thời gian tới, các thành viên Ban Hội nhập kinh tế quốc tế tỉnh cũng như các các sở, ngành liên quan cần tiếp tục tham mưu cho tỉnh trong định hướng các chính sách, quy hoạch để phát triển kinh tế theo hướng chuyển đổi xanh và phát triển bền vững. Bên cạnh đó đẩy mạnh công tác tuyên truyền đổi mới nhận thức, tiếp tục đồng hành cùng doanh nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp trong xây dựng, điều chỉnh chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp để nhanh chóng thích nghi và phát triển theo lộ trình xanh và bền vững, phù hợp với xu thế mới. Tăng cường công tác xúc tiến thương mại, tiếp cận thị trường quan trọng, đặc biệt là EU, tích cực tìm kiếm thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp trong giải quyết đầu ra cho sản phẩm, đặc biệt là các sản phẩm có thế mạnh của tỉnh như sản phẩm gỗ, chè, giầy da… nâng cao giá trị xuất khẩu./.

Khóa học cung cấp hệ thống kiến thức hoàn chỉnh, đồng bộ liên quan đến các thiết chế thương mại quốc tế và cơ sở pháp lý để vận hành hệ thống thương mại quốc tế hiện đại. Khóa học Luật thương mại quốc tế trang bị cho người học những hiểu biết nền tảng về các nguyên tắc, quy định vận hành hoạt động thương mại quốc tế đồng thời nắm vững những vấn đề pháp lý chủ yếu liên quan đến các hợp đồng thương mại quốc tế cùng các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ đó. Môn học giúp người học nhận thức rõ về các nguyên tắc, quy định vận hành hoạt động thương mại quốc tế đồng thời nắm vững những vấn đề pháp lý chủ yếu liên quan đến các hợp đồng thương mại quốc tế cùng các phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh.

Luật thương mại quốc tế bao gồm những quy tắc và tập quán phù hợp để thực hiện trao đổi thương mại giữa các quốc gia.[1] Tuy nhiên, nó cũng được dùng một cách không chính xác trong lối viết pháp lý như là thương mại giữa các khu vực kinh tế tư nhân của các nước. Ngành luật này hiện nay là một ngành nghiên cứu độc lập khi mà hầu hết các chính phủ đã trở thành một phần của thương mại thế giới, thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Vì sự trao đổi giữa các khu vực kinh tế tư của các quốc gia là một phần quan trọng của các hoạt động WTO, ngành luật này giờ đây là một phần rất quan trọng của các công trình học thuật và đang được nghiên cứu ở nhiều trường đại học trên toàn cầu.

Luật thương mại quốc tế nên được phân biệt với một lĩnh vực rộng hơn, là luật kinh tế quốc tế. Luật kinh tế quốc tế bao trùm không chỉ luật WTO, mà còn cả luật điều chỉnh hệ thống tiền tệ quốc tế và việc quản lý tiền tệ, cũng như luật phát triển quốc tế.

Hệ thống các quy tắc cho thương mại xuyên quốc gia trong thế kỷ 21 bắt nguồn từ pháp luật thương mại thời trung cổ gọi là lex mercatoria và lex maritima — lần lượt mang nghĩa, "luật cho thương gia trên cạn" và "luật cho thương gia trên biển." Luật thương mại hiện đại (vượt ra ngoài các hiệp định song phương) bắt đầu một thời gian ngắn sau Chiến tranh thế giới II, với việc đàm phán một hiệp ước đa phương điều chỉnh thương mại hàng hóa: Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT).

Luật thương mại quốc tế dựa trên những lý thuyết của chủ nghĩa tự do kinh tế được phát triển ở châu Âu và sau đó là Hoa Kỳ từ thế kỷ 18 trở đi.

Luật thương mại quốc tế là một tập hợp những quy tắc pháp lý của "pháp luật quốc tế" và lex mercatoria mới, điều chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế. "Pháp luật quốc tế" – các hiệp ước quốc tế và đạo luật của các tổ chức liên chính phủ quốc tế điều chỉnh các quan hệ trong thương mại quốc tế. Lex mercatoria là "luật cho thương gia trên cạn"; Alok Narayan định nghĩa "lex mercatoria" là "bất kỳ luật nào liên quan đến kinh doanh", Giáo sư Julius Stone đã phê phán cách nhìn này. Lex maritime là "luật cho thương gia trên biển". Alok trong bài viết gần đây của mình đã cho rằng định nghĩa này "quá hẹp" và "hoàn toàn mang tính sáng tạo". Giáo sư Dodd và Giáo sư Malcolm Shaw của Đại học Leeds ủng hộ quan điểm này.

Năm 1995, Tổ chức thương mại thế giới, một tổ chức chính thức có chức năng điều chỉnh thương mại, được thành lập. Đây là bước phát triển quan trọng nhất trong lịch sử luật thương mại quốc tế.

Những mục đích và cơ cấu của tổ chức được quy định bởi Hiệp định Thành lập Tổ chức thương mại thế giới, còn có tên "Hiệp định Marrakesh". Văn bản này không đưa ra cụ thể các quy tắc điều chỉnh thương mại quốc tế ở các lĩnh vực. Các quy tắc như vậy nằm trong các hiệp ước tách biệt, đi kèm Hiệp định Marrakesh.

(a) cung cấp một khung quản lý và thực thi các hiệp định; (b) là diễn đàn cho các cuộc đàm phán sâu hơn; (c) là cơ chế rà soát chính sách thương mại; và (d) thúc đẩy hơn nữa sự mạch lạc giữa các chính sách kinh tế của các nước thành viên

(a) Không phân biệt đối xử (nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc và nghĩa vụ đối xử quốc gia) (b) Tiếp cận thị trường (giảm các rào cản thuế quan và phi thuế quan đối với thương mại) (c) Cân bằng tự do hóa thương mại và các lợi ích xã hội khác (d) hài hòa hóa quy tắc quốc gia (các hiệp định TRIPS, TBT, SPS)

Hiệp ước chung về thuế quan và mậu dịch (GATT) đã là xương sống của luật thương mại quốc tế từ năm 1948 sau khi hiến chương về thương mại quốc tế được nhất trí ở La Habana. Nó bao gồm các quy định liên quan đến việc thực hiện thương mại "không công bằng" — bán phá giá và trợ cấp. Có nhiều thứ đã tác động tới GATT như Vòng đàm phán Uruguay và Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ.[2]

Năm 1994 Tổ chức thương mại thế giới (WTO) được thành lập để thay thế vai trò của GATT. Vì GATT vốn chỉ như một công cụ tạm thời điều chỉnh các vấn đề thương mại, và những nhà sáng lập đã hy vọng đến một thứ chắc chắn hơn.[cần dẫn nguồn]

Ý tưởng của những hiệp định này (WTO và GATT) là kiến tạo một sân chơi thương mại công bằng cho tất cả các nước. Bằng cách này mọi quốc gia nhận được những giá trị công bằng từ thương mại. Đó là điều khó khăn bởi mỗi quốc gia có một quy mô nền kinh tế khác nhau. Tại Mỹ, Đạo luật Mở rộng Thương mại được ban hành năm 1962.

Tổ chức thương mại thế giới-Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của Quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) yêu cầu các quốc gia tham gia ký kết nâng các quyền sở hữu trí tuệ (còn gọi là các đặc quyền độc quyền sở hữu trí tuệ). Điều này, một cách gây tranh cãi, đã tác động tiêu cực đến việc tiếp cận các loại thuốc cần thiết ở một số quốc gia như các nước kém phát triển hơn, khi nền kinh tế địa phương không có khả năng sản xuất nhiều sản phẩm kỹ thuật như dược phẩm.

Các hoạt động qua biên giới là đối tượng chịu thuế của nhiều hơn một quốc gia. Hoạt động thương mại diễn ra giữa một vài chủ quyền tài phán hay quốc gia được gọi là giao dịch qua biên giới. Các giao dịch liên quan đến bất kỳ động thái phát triển mới nào của kinh doanh quốc tế hay thương mại quốc tế cũng cần được ghi nhận trong luật thuế, khi mỗi nước thực thi các luật khác nhau đối với các thực thể kinh doanh nước ngoài. Việc hoạch định thuế ở tầm quốc tế đảm bảo các thực thể kinh doanh qua biên giới tuân thủ các quy định và tránh hoặc giảm hiện tượng đánh thuế hai lần.

Nổi bật nhất trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp liên quan đến luật thương mại quốc tế là hệ thống giải quyết tranh chấp của WTO. Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO hoạt động từ năm 1995 và đã rất tích cực làm việc với 369 vụ việc trong khoảng thời gian từ 1 tháng 1 năm 1995 đến 1 tháng 12 năm 2007.[3] Gần một phần tư các tranh chấp đạt được một biện pháp hòa giải, trong các vụ khác các bên liên quan phải cần đến phán quyết. Cơ quan giải quyết tranh chấp WTO có thẩm quyền duy nhất và bắt buộc đối với những tranh chấp liên quan đến luật WTO (Điều 23.1 Bản ghi nhớ Giải quyết tranh chấp[2]).